Đặc trưng và thành tựu Phục_Hưng

Triết học

Triết học thời Phục Hưng cấu thành từ ba trường phái lớn: chủ nghĩa kinh viện, chủ nghĩa nhân văn, và những phái triết học "mới"[38]. Trong đó, chủ nghĩa nhân văn tiêu biểu cho tư tưởng Phục Hưng. Ở một góc độ nào đó, chủ nghĩa nhân văn không hẳn là một triết lý mà là một phương pháp nghiên cứu. Mặc dù các sử gia đôi khi bất đồng trong việc xác định ý nghĩa chính xác chủ nghĩa nhân văn, hầu hết chọn "một lối định nghĩa trung dung... là phong trào khôi phục, giải thích, và đồng hóa ngôn ngữ, văn học, học tập và các giá trị của Hy Lạp và La Mã cổ đại".[39]. Những nhà nhân văn chủ nghĩa chối bỏ truyền thống kinh viện đương thời vốn dựa trên hai cột trụ chính là triết học Aristotle và thần học Thiên Chúa giáo. Người được cho là nhà nhân văn Ý đầu tiên là Francesco Petrarca, người cổ vũ cho việc hướng nghiên cứu tư liệu cổ đại vào việc làm sống lại đạo đức xã hội Ý, quan tâm tới tất cả các tác giả cổ đại (kể cả những truyền thống phương Đông) chứ không chỉ Aristotle, đề cập tới các vấn đề thế tục liên quan tới con người, xã hội, và giáo dục hướng tới quần chúng[38]. Những ý tưởng của Petrarca đã đi dần đi vào hiện thực Ý thế kỷ XV và sau đó nở rộ, lan ra khắp châu Âu với nhiều nhà tư tưởng lớn: Thomas More (Anh), Michel de Montaigne (Pháp), Niccolò Machiavelli (Ý), Juan Luis Vives (Tây Ban Nha)[40][41].

Chân dung Thomas More, tranh của Hans Holbein, 1527

Những triết gia chính trị như Machiavelli và Thomas More đã làm sống lại ý tưởng của các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ đại, áp dụng chúng trong những bài phê bình chính phủ đương thời, đồng thời vạch ra theo những đường lối khác nhau cách thức một nền chính trị lý tưởng vận hành; các cuốn UtopiaQuân vương có ảnh hưởng lâu dài tới cả triết học chính trị đương đại[42]. Matteo Palmieri (1406-1475), một nhà nhân văn khác, trong Della vita Civile ("Về đời sống Công dân"; năm 1528) đã trình bày những ý tưởng về cách thức phát triển tinh thần và thể chất của trẻ em, làm thế nào người dân có thể tiến hành tu dưỡng đạo đức, làm thế nào người dân và xã hội có thể đảm bảo tính trung thực trong đời sống cộng đồng, và sự khác biệt giữa cái thực dụng hữu ích và sự thành thật[43]. Leon Battista Alberti tóm tắt tinh thần nhân văn chủ nghĩa trong câu nói: "Con người có thể làm tất cả mọi thứ nếu họ muốn".[44]

Tuy nhiên, sự thành công của chủ nghĩa nhân văn không có nghĩa là chủ nghĩa kinh viện lụi tàn. Trái lại, chủ nghĩa kinh viện vẫn có thành lũy vững chắc như ở Đại học Padua hay Đại học Pologna. Những triết gia kinh viện như Francisco Suárez đáp trả những chỉ trích của các nhà nhân văn chủ nghĩa bằng cách tìm kiếm tư liệu và bản dịch chính xác hơn, gồm những bình luận tiếng Hy Lạp về Aristotle. Đây là thời mà học thuyết của Thomas Aquinas lên ngôi trong thần học Cơ đốc giáo. Bên cạnh đó, khi đề ra những lập trường siêu hình và đạo đức mới đáp ứng thế giới quan thay đổi khi người Tây Ban chinh phục Tân Thế giới, các học giả này đã góp phần định hình những luật lệ quốc tế mới liên quan tới vấn đề chủ nghĩa đế quốc và chế độ nô lệ[45].

Ngoài hai trường phái chính trên, còn có một nhóm các nhà triết học tự gọi mình là "mới", những người cảm thấy những đề tài trong triết học kinh viện là quá hạn hẹp, và đi ra ngoài con đường chiết trung của chủ nghĩa nhân văn, bao gồm những nhà tư tưởng như Nicholas Cusanus, Ficino, Tommasso Campanella hay Giordano Bruno,... Họ chối bỏ triết học Aristotle và tìm một đường lối khác, chủ yếu dựa trên Plato nhưng tự thân cũng đề xuất một loạt thuật ngữ cũng như chủ đề mới trong vũ trụ học, tâm lý học, chính trị học. Đây là nhóm bị Giáo hội cảm thấy bị thách thức nhất, và nhiều người trong số đó bị điều tra, bắt giam và thậm chí Bruno bị xử hỏa hình[46].

Mỹ thuật

Sự sáng tạo ra Adam, một tác phẩm nổi tiếng của Michelangelo

Hội họa

Một trong những đặc điểm phân biệt của mỹ thuật thời kỳ Phục Hưng là sự phát triển phép phối cảnh tuyến tính có tính hiện thực cao. Giotto di Bondone (1267-1337), được coi là người đầu tiên thực hiện một tác phẩm bích họa như là một cánh cửa sổ để bước vào không gian, nhưng tác phẩm của ông đã không gây được nhiều ảnh hưởng cho đến tận thời của Filippo Brunelleschi (1377–1446) và những tác phẩm tiếp theo của Leon Battista Alberti (1404-1472), quan điểm này được chính thức hóa thành một kỹ xảo nghệ thuật.[47] Sự phát triển của quan điểm này là một phần của một xu hướng rộng lớn hơn đối với chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật[48], đạt đến độ trưởng thành kể từ tranh tường của Masaccio (1401-1428). Để đạt được điều đó, các họa sĩ đã phải phát triển các kỹ thuật khác nhau, nghiên cứu mảng sáng-tối, nổi tiếng nhất trong số đó là trường hợp giải phẫu người của Leonardo da Vinci. Đằng sau những thay đổi trong phương pháp nghệ thuật, là một khao khát được làm mới lại muốn miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, và làm sáng tỏ các tiên đề thẩm mỹ, với các tác phẩm đi đầu của Leonardo, Michelangelo và Raffaello đã đại diện cho đỉnh cao của thuật và đã được nhiều nhiều họa sĩ khác học hỏi. Những nhân vật đáng chú ý khác bao gồm Sandro Botticelli, làm việc cho gia tộc Medici ở Firenze, một người Firenze khác là DonatelloTiziano VecelliVenezia, cùng nhiều người khác[49].

Đồng thời, tại Hà Lan, khi mà văn hóa nghệ thuật đang phát triển, những tác phẩm tiêu biểu của Hugo van der GoesJan van Eyck đã gây nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của hội họa tại Ý, cả về kỹ thuật với sự ra đời của sơn dầu trên vải lẫn phong cách trong sự diễn đạt về chủ nghĩa tự nhiên. (xem Thời kỳ Phục Hưng tại Hà Lan) Sau này, những tác phẩm của Pieter Bruegel il Vecchio đã truyền cảm hứng cho các họa sĩ về chủ đề miêu tả cuộc sống hàng ngày. Sự giao thoa văn hóa bắc-nam châu Âu khiến cho từ thế kỷ XVI, có thể nói toàn châu Âu đã chuyển mình sang một nền mỹ thuật mới.[50]

Chân dung tự họa của Leonardo da Vinci. Những tác phẩm kinh điển của ông như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùngNgười Vitruvius là đại diện cho nghệ thuật thời Phục Hưng

Kiến trúc

Bài chi tiết: Kiến trúc Phục Hưng

Kiến trúc Phục Hưng thường được chia làm ba giai đoạn chính: Phục Hưng hay Sơ kỳ Phục Hưng (thế kỷ XV), Trung kỳ Phục Hưng (1500-1525), Trường phái kiểu cách (1525-1600). Kiến trúc sư Filippo Brunelleschi được coi là người tiên phong khuynh hướng nghiên cứu các tòa nhà thời cổ điển và tư liệu cổ đại (như tác phẩm của Vitruvius) cũng như hình học để tạo nên một phong cách mới, nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỉ lệ, tính đều đặn của các yếu tố. Một trong những công trình tiêu biểu nhất về kỹ thuật xây dựng mái vòm của Brunelleschi là Nhà thờ chính tòa Firenze.[51]. Trong khi đó, công trình kiến ​​trúc nổi bật nhất trong thời kỳ Trung kỳ Phục Hưng là Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, kết hợp tài năng của các thiên tài thời bấy giờ là Bramante, Michelangelo, Raffaello, SangalloMaderno [52].

Những kiểu thức cột thời La Mã được lựa chọn là: Toscan, Doric, Ionic, Corinth và kiểu hỗn hợp. Những thức cột này có thể được cấu trúc nhằm hỗ trợ những dãy cuốn hay khuôn cửa, hoặc được dùng để trang trí hoàn toàn, hay còn được dùng để làm trụ bổ tường. Một trong những công trình đầu tiên sử dụng trụ bổ tường là tòa nhà Sagrestia Vecchia (1421–1440) được xây dựng bởi Filippo Brunelleschi.[53]

Lâu đài Chambord (1519 -1547), một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về kiến trúc Phục hưng

Những vòm thường có dạng hình phân (theo Trường phái kiểu cách) hay phân đoạn, thường được sử dụng với các dãy cuốn nhằm nối đầu cột này với đầu cột kia. Nó có thể là một phần nối đầu cột với đế vòm. Alberti là một trong những người đầu tiên sử dụng kiến ​​trúc mái vòm trên một đài kỷ niệm. Những mái vòm thời Phục Hưng thường không có thanh chống. Chúng thường là những phân đoạn hay là hình phân được trụ bởi một mặt phẳng hình vuông, trong khi những mái vòm trong những tòa được xây dựng theo phong cách Gothic thường vuông góc[54].

Từ khoảng thế kỷ XVI, kiến trúc Phục Hưng Ý bắt đầu lan ra các miền khác của châu Âu, thay thế dần cho phong cách Gothic đang thống trị đương thời. Nhiều nghệ sĩ Ý được các triều đình, lãnh chúa đón rước và trả công hậu hĩnh cho việc xây cất, tuy nhiên cũng xuất hiện một số kiến trúc sư không phải người Ý có tiếng tăm, như Philibert de l'Orme (Pháp), de Toledo (Tây Ban Nha) và Inigo Jones(Anh)[55].

Điêu khắc

Điêu khắc Phục Hưng được cho là có một điểm khởi đầu tương đối rõ ràng, với cuộc tranh đua giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ Florence. Ghiberti, người chiến thắng, đã giới thiệu một phong cách cách tân rõ rệt so với nghệ thuật Gothic, với những chạm khắc bằng trên cánh cửa đồng của tu viện mang đậm nét cổ điển với nhiều tầng lớp có chiều sâu và hậu cảnh phong phú [56]. Chất liệu được ưa chuộng thời kỳ đầu Phục Hưng là tượng đồng sử dụng phương pháp đúc mẫu chảy [57], sau đó chuyển dần sang tượng đá hoa cương, cẩm thạch.

Phong cách của Ghiberti được tiếp nối bởi người từng là phụ tá của ông, Donatello, sau đó là Andrea del Verrocchio và học trò của ông là Leonardo da Vinci[58]. Thời kỳ cũng chứng kiến xu hướng các tượng trong nhà thờ được trang trí bên trong thay vì các vườn tượng bên ngoài, trong khi các tượng đặt nơi công cộng như quảng trường, nhất là tượng bán thân, trở nên phổ biển, mô tả không chỉ những người đàn ông tiếng tăm mà đôi khi cả phụ nữ, trẻ em[59]. Điêu khắc Phục Hưng đạt đến đỉnh cao với Michelangelo, với khoảng 20 năm đầu thế kỷ XVI ông dành cho nghệ thuật đã để lại các kiệt tác về mô tả cơ thể và cảm xúc con người như David, Pietà, Moses, cụm tượng mộ Giáo hoàng Julius II[60][61].

Nghệ thuật phi tạo hình

Văn học

Văn học Phục Hưng được hưởng lợi nhiều từ việc khôi phục, dịch lại các tác phẩm văn học Hy Lạp, La Mã, trình độ học vấn trung bình nâng cao và nhất là phát minh in ấn cho phép lưu hành tác phẩm rộng rãi[62]. Trong khi có một sự chuyển dịch sang các đề tài thế tục trong thơ ca và văn xuôi thời kỳ đầu (đặc biệt với BoccacioPierre de Ronsard), nhiều kiệt tác vẫn mang ảnh hưởng tôn giáo đậm nét như Thần khúc của Dante [63]. Các thể loại mới cũng ra đời: Petrarca phổ biến sonnette vào thơ và văn xuôi, Michel de Montaigne sáng tạo nên tiểu luận (essay), còn Don Quichotte của Miguel de Cervantes thường được xem là mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại. Trong thế kỷ XVI, trung tâm văn học Phục Hưng chuyển nên phía bắc với tiểu thuyết, thi ca Pháp (François Rabelais, Pierre de Ronsard) và kịch nghệ Anh (William Shakespeare, Christopher Marlowe).[64]

Các nhà văn Phục Hưng là những người truyền bá mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa nhân đạo, ca ngợi lý trí, từ chối tính tầm thường và chủ nghĩa duy vật, phản ánh tinh thần thời đại bấy giờ; tuy nhiên có tác giả cho rằng có một dòng chảy chính trong nền văn chương thời đại đó phản ánh một quan niệm trần thế, vô luân và ít nhiều phản lý trí[65].

Âm nhạc

Kinh Thương Xót trong bản Chigi codex từ tác phẩm Missa Ecce ancilla Domini của Johannes Ockeghem

Vào thời kỳ Phục Hưng, sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu và gia tăng dân số ở các thành thị gia tăng tạo nên một tầng lớp công chúng mới cho kịch nghệ và âm nhạc. Việc truyền bá, giáo dục âm nhạc được mở rộng hơn: với máy in mới xuất hiện, những bản nhạc được in ấn hàng loạt và phổ biến rộng rãi đến mọi người.[66] Cho đến năm 1600, những bản nhạc nổi tiếng đã được lưu truyền khắp châu Âu. Tầng lớp trung lưu đã có thể tự học chơi nhạc cụ, thông qua những quyển sách giáo khoa âm nhạc dạy thổi tiêu, đánh đàn lute và guitar. Các nhạc sĩ nổi tiếng như Josquin des Prez và Giovanni Pierluigi da Palestrina đi đầu trong công cuộc cách tân âm nhạc.[67] Con người, chứ không phải Chúa Trời, trở thành đối tượng chính trong âm nhạc. Các nhạc sĩ chuyển hướng sáng tác về phía công chúng. Kỹ thuật hòa âm đã làm thay đổi diện mạo nền âm nhạc.

Trong giai đoạn này, âm nhạc bắt đầu trở nên hoa mỹ hơn. Những bản lễ ca và motet trở nên tinh vi, phức tạp hơn. Nhiều loại giọng được đưa vào, các chương nhạc trở nên dài hơn và cầu kỳ hơn.[68] Các nhạc sĩ bắt đầu thích thể hiện phong cách hơn là truyền tải các thông điệp tôn giáo. Những vị lãnh đạo nhà thờ bắt đầu lo ngại thính giả sẽ không hiểu được tầm quan trọng của lời ca, và tại Hội đồng tôn giáo, họ đề nghị âm nhạc nhà thờ phải dùng để minh họa cho lời ca. Điều này đánh dấu cho sự khởi đầu của cấu trúc hài hòa giữa lời ca và giai điệu.[69]

Các nhạc sĩ bắt đầu viết phức điệu cho nhạc cụ trình diễn. Những bài phức điệu này thường dành cho các vũ hội trong dinh cơ của tầng lớp quý tộc. Ống tiêuđàn luýt là 2 nhạc cụ thông dụng nhất.[70] Ống tiêu và đàn violin đủ kích cỡ diễn tấu thành từng nhóm gọi là consort. Những nhạc cụ khác của thời Phục hưng là kiểu kèn cổ, sáo, kèn TrumpetTrombon loại nhỏ.[71] Ngoài ra, nhạc cụ thường dùng để đệm cho người hát.

Khoa học

Nghiên cứu của Vesalius năm 1543 lập nên một ngành khoa học mới, giải phẫu cơ thể người.Galileo Galilei. Tranh chân dung chì màu bởi nhà điêu khắc Phục Hưng Leone Leoni

Việc tái khám phá các tài liệu cổ đại cũng như phát minh in ấn ở châu Âu đã bình dân hóa việc học hành và phát triển trao đổi ý tưởng. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu Phục Hưng, các nhà tư tưởng chính chủ yếu quan tâm tới các khoa học nhân văn hơn là triết học tự nhiên hay là toán học ứng dụng. Và sự hâm mộ các tư liệu cổ điển lại củng cố hơn nữa quan điểm của AristotlePtolemaeus về vũ trụ[72].

Bất chấp điều đó, khoảng năm 1450, các bài viết của Nicholas Cusanus báo trước thế giới quan nhật tâm của Copernicus theo cách diễn giải triết học. Nhà bác học lớn nhất của thế kỷ XV là Leonardo da Vinci, mặc dù thường được biết đến như một nhà phát minh, ông đã tiến hành các nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, có hệ thống. Da Vinci đã tiến hành giải phẫu, quan sát và vẽ lại cơ thể người và động vật, thực hiện các thí nghiệm có kiểm soát về động học, khí động học và thủy động học, nhất là đã trình bày các nguyên tắc cơ bản của phương pháp khoa học. Fritjof Capra, người đã chỉ ra tầm quan trọng từng ít được chú ý của những nghiên cứu này, đã gọi ông là "cha đẻ của khoa học hiện đại" (thay vì Galilei hay Bacon)[73].

Phát kiến Tân Thế giới của Christopher Columbus đã mở ra một thế giới quan mới rộng rãi hơn nhiều, đồng thời các quan sát thực tiễn bắt đầu thách thức các quan niệm tưởng chừng vững chắc cổ xưa. Khi Cải cách Kháng Cách và sự phản kích của Giáo hội đụng độ, Phục Hưng phương Bắc chứng kiến một sự chuyển dịch trọng tâm có tính quyết định từ triết học tự nhiên Aristotle sang hóa học và các khoa sinh vật học (thực vật học, giải phẫu họcy học)[74]. Những tiến bộ quan trọng cũng đạt được trong thiên văn học, vật lý, toán học, sinh học[75].

Một vài người xem đây là một cuộc "cách mạng khoa học, báo hiệu sự bắt đầu của kỷ nguyên hiện đại[76], những người khác thì chỉ coi nó là một sự tăng tốc của một tiến trình liên tục bắt đầu từ thời cổ đại tới ngày nay[77]. Tuy nhiên, nhìn chúng có sự nhất trí rằng thời Phục Hưng đã xảy ra những thay đổi đáng kể trong vũ trụ quan và phương pháp giải thích các hiện tượng tự nhiên của con người[78]. Dấu mốc đáng nhớ nhất là năm 1543, năm mà cả hai cuốn De humani corporis fabrica ("Về sự hoạt động của cơ thể người") của Andreas Vesalius cung cấp một sự tự tin mới về vai trò của phân tích, quan sát và cái nhìn cơ giới luận về giải phẫu học[78] cũng như De Revolutionibus Orbium Coelestium ("Về Chuyển động quay của các Thiên thể") của Copernicus cùng được xuất bản. Thuyết nhật tâm của Copernicus, một biểu tượng chói ngời về lý tính chống lại định kiến truyền thống, sau đó được Galileo Galilei, Tycho BraheJohannes Kepler củng cố và phát triển[79]. Quan trọng không kém là các tác giả như Copernicus, Galileo và Francis Bacon đã trình bày những đặc điểm quan trọng mà một nền khoa học mới nên có để đạt được tiến bộ, tức phương pháp khoa học. Chúng bao gồm tầm quan trọng của bằng chứng thực nghiệm, vai trò của toán học, và từ bỏ đường lối thuần túy dựa vào luận lý của Aristotle[80].

Tôn giáo

Alexander VI, một Giáo hoàng nhà Borgia khét tiếng gian dâm và tham nhũng.

Những lý tưởng mới của chủ nghĩa nhân văn, mặc dù mang tính thế tục nhiều hơn trong một vài khía cạnh, đã phát triển dựa trên một nền tảng Cơ đốc giáo, đặc biệt ở phong trào Phục Hưng phương Bắc. Phần nhiều, nếu không nói là hầu hết, các tác phẩm nghệ thuật mới được đặt hàng hoặc hiến tặng cho Giáo hội[81]. Tuy nhiên, Phục Hưng đã có một ảnh hưởng sâu sắc lên nền thần học đương thời, đặc biệt là trong cách mà con người nhận thức quan hệ giữa người và Chúa Trời[82]. Nhiều nhà thần học lỗi lạc của giai đoạn này là những nhà nhân văn hoặc đi theo phương pháp nhân văn chủ nghĩa, như Erasmus, Zwingli, Thomas More, LutherCalvin.

Phục Hưng xuất hiện trong một thời đại của những nhiễu nhương tôn giáo. Thời Hậu kỳ Trung Đại chứng kiến một thời kỳ những mưu đồ chính trị bao quanh chế độ giáo hoàng, mà đỉnh điểm là cuộc Ly giáo Tây phương, trong đó ba người đồng thời tuyên bố mình là giám mục chân chính của giáo phận Rôma (tức Giáo hoàng)[83]. Mặc dù cuộc ly giáo cuối cùng cũng được giải quyết bằng Công đồng Constance (1414), nó đánh dấu sự sa sút nghiêm trọng danh dự của Giáo hội và thế kỷ XV chứng kiến một phong trào cải cách mang tên Thuyết công đồng (tiếng Anh: conciliarism) tìm cách hạn chế quyền lực cá nhân của Giáo hoàng. Mặc dù Giáo hoàng một lần nữa nắm quyền tối thượng trong sự vụ giáo hội kể từ Công đồng Lateran V (1511), chức vị này liên tục đi kèm với những cáo buộc tham nhũng, thối nát, nổi tiếng nhất là Giáo hoàng Alexanđê VI, người bị buộc các tội mại thánh, gia đình trị, và có bốn người con trong khi làm Giáo hoàng, và gả chúng cho các hoàng tộc để thâu tóm quyền lực[84].

Những giáo sĩ như Erasmus và Luther đề xuất cải cách Giáo hội, thường dựa trên việc bình chú Tân Ước theo khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa[82]. Tháng 10 năm 1517, Luther công bố "95 Luận văn", thách thức quyền lực Giáo hoàng và chỉ trích sự mục nát của giáo hội, đặc biệt là việc buôn bán phép xá tội. Những luận văn này dẫn đến một cuộc đại cải cách, tức Cải cách Kháng Cách, một sự cắt đứt với Giáo hội Công giáo La mã từng tuyên bố quyền thống trị ở Tây Âu. Do đó, chủ nghĩa nhân văn nói riêng và Phục Hưng nói chung đóng một vai trò trực tiếp trong sự bùng nổ Kháng Cách, cũng như nhiều cuộc tranh cãi và tranh chấp tôn giáo đương thời[85].

Tự ý thức

Một đặc trưng quan trọng của thời Phục Hưng là các nhân vật của thời đại này ý thức được về bản sắc phong trào văn hóa mà mình đại diện. Đến thế kỷ XV, nhiều nhà văn, nghệ sĩ, kiến trúc sư ở Italia đã dùng những cụm từ như modi antichi (phong cách cổ đại) hay alle romna et alla antica (phong cách La Mã và cổ đại) để mô tả tác phẩm của mình. Trước đó, những năm 1330 Petrarca đã gọi thời đại trước Cơ đốc giáo là antiqua (cổ đại) và thời đại Cơ đốc giáo là nova (mới), chứng kiến sự lu mờ của quốc gia dân tộc[86]. Leonardo Bruni là người sử dụng cách phân kỳ 3 giai đoạn trong cuốn Lịch sử dân tộc Firenze (1442)[87]. Hai giai đoạn đầu của Bruni lấy lại từ Petrarca, nhưng ông thêm vào một thời đại thứ ba bởi tin rằng Italia đương thời không còn trong trạng thái suy tàn. Flavio Biondo sử dụng một nền tảng tương tự trong Những thập kỷ Lịch sử từ sự Suy tàn của Đế chế La Mã (1439-1453 [88]).

Các nhà sử học nhân văn chủ nghĩa biện luận rằng giới học giả đương thời đã khôi phục những liên hệ trực tiếp với thời cổ điển, do đó bỏ qua thời kỳ trung gian, mà họ lần đầu tiên gọi là thời Trung Đại, mà bấy giờ trong các tài liệu tiếng Ý là media tempestas[89]. Thuật ngữ la rinascita (sự tái sinh, phục hưng) cũng xuất hiện, tuy nhiên, trong nghĩa rộng mà Giorgio Vasari gán cho trong cuốn Vite de' più eccellenti architetti, pittori, et scultori Italiani ("Cuộc đời của các nhà kiến trúc, họa sĩ và nhà điêu khắc Ý tài ba", 1550)[90][91]. Vasari chia thời đại này làm ba giai đoạn: giai đoạn đầu bao gồm Cimabue, Giotto, và Arnolfo di Cambio; giai đoạn hai gồm Masaccio, Brunelleschi, và Donatello; giai đoạn ba tập trung vào Leonardo da VinciMichelangelo. Theo Vasari, không chỉ là sự nhận thức đang lớn lên về thời cổ đại cổ điển thúc đẩy sự phát triển này, mà còn có vai trò của ham muốn nghiên cứu và bắt chước tự nhiên ngày càng tăng[92].